|
Vi khuẩn Mycoplasma (Ảnh minh họa). |
|
Đặc điểm của vi khuẩn
Do thiếu vách tế bào nên vi khuẩn có tính đa dạng tế
bào và tính đề kháng đối với những thuốc kháng sinh tác động lên vách tế
bào như penicillin và cephalosporin; việc nuôi cấy trong ống nghiệm
cũng rất khó khăn. Vi khuẩn cư trú tại niêm mạc đường hô hấp và đường
niệu, sinh dục của nhiều loài động vật. Ở người có 16 loài Mycoplasma
sống cộng sinh và gây nhiễm khuẩn đường hô hấp, viêm niệu đạo, âm đạo...
Mycoplasma pneumoniae (MP) bám dính lên tế bào, đồng
thời sản xuất được hydro peroxid và nhiều chất ammonia gây tổn thương tế
bào vật chủ; kích hoạt những tự kháng thể IgM làm ngưng kết hồng cầu ở
4oC, gây thiếu máu và một số biến chứng khác. MP gây bệnh ở đường hô
hấp đối với mọi lứa tuổi, đặc biệt từ 5 - 20 tuổi. Thời gian ủ bệnh từ 2
- 3 tuần, lâu hơn so với đa số các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp khác.
Bệnh lây lan do tiếp xúc, không những phát thành dịch ở trường học và
các tập thể đông người mà còn xuất hiện rải rác ở các gia đình. Tuy viêm
phổi là biểu hiện đặc trưng, nhưng nhiễm MP ngoài phổi lại phổ biến
hơn. Ở trẻ rất nhỏ, đa số chỉ có triệu chứng hô hấp trên, trong khi ở
trẻ trên 5 tuổi và người lớn hay gặp viêm phế quản và viêm phổi.
Biểu hiện lâm sàng
Sau thời gian ủ bệnh kéo dài, bệnh khởi phát với các
triệu chứng: sốt trên 39oC, có lạnh run, đau đầu, đau cơ ngực do ho
nhiều và kéo dài, ho nặng; nhưng ít gặp đau ngực kiểu màng phổi. Số ít
bệnh nhân bị viêm phế quản, khí quản hay viêm phổi có triệu chứng ho nổi
bật. Ho có đờm màu trắng thường lẫn một ít máu. Nghe phổi có thể bình
thường nên khó phát hiện được bệnh. Chụp Xquang cho thấy những hình ảnh
tổn thương. Dưới 20% bệnh nhân bị tràn dịch màng phổi.
Nhiều triệu chứng ngoài phổi do MP gây ra gồm: ban đỏ
đa dạng hay hội chứng Stevens-Johnson xảy ra đặc trưng ở bệnh nhân nam
trẻ tuổi; dát sẩn và ban ngoài da dạng mụn nước, hồng ban nút và mày
đay; viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim; viêm não, rối loạn điều hòa do
tiểu não, hội chứng Guillain-Barré, viêm tủy cắt ngang và bệnh thần kinh
ngoại biên; thiếu máu tán huyết và các bệnh lý đông máu.
Hầu hết, bệnh do nhiễm MP không được chẩn đoán vì
không thể phân biệt được với bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp do vô số tác
nhân vi khuẩn và virut khác gây ra. Người ta chỉ nghi ngờ khi bệnh kéo
dài hay có những dấu hiệu ngoài phổi. Đây là đặc điểm phân biệt với bệnh
cúm nói chung và cúm A (H1N1) nói riêng không có biến chứng (thường
giảm sau 2- 5 ngày và đa số bệnh nhân hồi phục phần lớn sau 1 tuần).
Tuy nhiên ở người cao tuổi, triệu chứng của bệnh cúm
có thể kéo dài vài tuần do suy nhược cơ năng sau cúm. Số lượng bạch cầu
thường tăng, nhuộm gram đờm chỉ thấy bạch cầu chứ không có bất kỳ loại
hình thái vi khuẩn nào do vi khuẩn không có vách tế bào, nên không thể
phát hiện chúng bằng nhuộm gram. Chụp Xquang ở bệnh nhân viêm phổi, có
thể thấy thâm nhiễm mô kẽ hoặc thâm nhiễm dạng nốt chủ yếu ở những thùy
dưới. Nuôi cấy không mang lại kết quả giúp ích cho chẩn đoán. Những
phương pháp như miễn dịch gắn men, miễn dịch huỳnh quang gián tiếp và cố
định bổ thể có thể phát hiện các kháng thể đặc hiệu. Agglutinnin lạnh
tuy không đặc hiệu nhưng xuất hiện vào ngày thứ 7 đến ngày thứ 10 trong
hơn 50% số bệnh nhân viêm phổi và có thể phát hiện được bệnh. Xét nghiệm
đa kháng nguyên cũng thích hợp để chẩn đoán bệnh.
Điều trị đặc hiệu
Vì hầu hết bệnh nhiễm MP không được chẩn đoán, nên
việc điều trị phải hướng đến một trong hai hội chứng: nhiễm khuẩn hô hấp
trên và viêm phổi có tính chất dịch ở những tập thể. Nhiễm khuẩn hô hấp
do virut lẫn do MP đều không cần điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên,
viêm phổi mắc phải ở các tập thể, cộng đồng có thể do các vi khuẩn
Streptococcus pneumoniae và Haemophilus influenzae gây ra hoặc do những
tác nhân “không điển hình” như Chlamydia pneumoniae, Legionella
pneumophila và MP.
Do đó phác đồ điều trị bệnh mycoplasma phù hợp phải dùng những kháng
sinh có hoạt phổ rộng hoặc phối hợp đồng thời nhiều loại thuốc:
cephalosporin thế hệ 3 như ceftriaxon; ceftotaxim phối hợp với
erythromycin có tác dụng diệt các loại vi khuẩn không điển hình. Nếu có
điều kiện sử dụng các thuốc mới như: clarithromycin; azithromycin;
levothyroxin có tác dụng tiêu diệt những vi khuẩn gây viêm phổi cộng
đồng. Cần chú ý rằng điều trị viêm phổi do MP thường kéo dài từ 14 - 21
ngày.
Viêm phổi do MP thường tự giới hạn và hiếm khi gây đe
dọa tính mạng. Thuốc kháng sinh có hiệu quả sẽ làm ngắn thời gian bị
bệnh, giảm ho và làm giảm mức độ lây nhiễm ở bệnh nhân. Mặc dù triệu
chứng sẽ cải thiện khi điều trị kháng sinh, nhưng vi khuẩn thường không
bị tiêu diệt tận gốc. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn vẫn dương tính sau nhiều
tháng dù đã điều trị kháng sinh có hiệu quả.
Nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng, một người bị
cúm rất khó chẩn đoán phân biệt với bệnh hô hấp cấp tính do các virut
gây bệnh khác hay do MP gây ra. Để phân biệt người ta phải dựa vào tính
chất gây dịch của cúm và xét nghiệm phát hiện virut gây bệnh. Triệu
chứng và điều trị bệnh cúm A (H1N1) chúng tôi đã giới thiệu trên
SK&ĐS trong các số báo trước, độc giả có thể so sánh để phân biệt
với bệnh do Mycoplasma trình bày trên đây.
BS. Phạm Văn Thân- Ytenghean
|
Nhận xét
Đăng nhận xét