Bệnh Chlamydia
trachomatis (Ct) là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục xếp
hàng đầu trên toàn thế giới. Tổ chức Y tế thế giới ước tính hàng năm có
khoảng 90 triệu ca nhiễm Ct được phát hiện mới. Nhiễm Ct thường gây viêm
niệu đạo, viêm cổ tử cung
Đại cương
Tác nhân lây nhiễm hàng đầu- Chlamydia
trachomatis (Ct) là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục xếp
hàng đầu trên toàn thế giới. Tổ chức Y tế thế giới ước tính hàng năm có
khoảng 90 triệu ca nhiễm Ct được phát hiện mới. Nhiễm Ct thường gây viêm
niệu đạo, viêm cổ tử cung. Tuy nhiên những hậu quả về sau của nhiễm Ct
như viêm phần phụ, đau vùng chậu mãn tính, thai ngoài tử cung, vô sinh
do tổn thương ống dẫn trứng, viêm mào tinh, viêm trực tràng và viêm khớp
phản ứng đòi hỏi phải chăm sóc y tế với phí tổn cao.
>>Mọi thắc mắc nhấp vào đây để được tư vấn trực tiếp miễn phí với chuyên gia Trung tâm điều trị nam khoa Elizabeth! Đặt lịch hẹn khám trực tuyến để được miễn chi phí đăng kí
Sinh học một vi trùng khiếm khuyết-
Chalmydia trachomatis là vi trùng sống ký sinh bắt buộc bên trong tế
bào. Không như những vi trùng khác có khả năng tổng hợp năng lượng từ
môi trường ngoài, Ct phải phụ thuộc vào năng lượng tổng hợp sẵn của tế
bào để tồn tại và nhân lên. Để vào được bên trong tế bào, Ct ngụy trang
thành một “vị khách hiền lành” để tế bào mời vào. Khi đã vào bên trong,
Ct lập tức trở mặt, sinh sản thật nhanh khiến tế bào không thể tống khứ
vị khách bất lương này. Đến lúc tế bào đã trở nên “chật chội” Ct phá vỡ
tế bào để đi tìm nơi định cư mới.
Chu trình lây nhiễm của Ct có thể tóm
tắt như trong hình 1, bao gồm 6 bước: xâm nhiễm, xâm nhập, EB -> RB;
nhân đôi RB, RB -> EB, và phóng thích EB. Toàn bộ chu trình kéo dài
48 – 72 giờ. Trong thực tế, Ct phải thực hiện những biến đổi phức tạp,
điều chỉnh hoạt động của tế bào chủ để phát triển. Cơ chế hoạt động của
Ct vẫn còn chưa được biết rõ.
Trong thời gian gần đây, những tiến bộ
về sinh học phân tử đã giúp giải mã bộ gen của Ct, khẳng định quá trình
tiến hóa phức tạp của Ct để từ một vi khuẩn khiếm khuyết, lệ thuộc trở
thành tác nhân lây nhiễm hàng đầu trên thế giới!
Chlamydia và sinh sản
Ở phụ nữ, nhiễm Ct được xem là nguyên
nhân chính gây viêm cổ tử cung xuất tiết. Từ địa điểm ban đầu này, Ct có
thể đi vào niệu đạo gây viêm niệu đạo, đi ngược lên vào đường sinh dục
gây bệnh lý vùng chậu mà hậu quả có thể là thai ngoài tử cung hoặc vô
sinh. Trong thai kỳ, Ct có thể gây vỡ ối non, nhiễm trùng ối, sinh non,
nhiễm trùng hậu sản và nhiễm Ct cho trẻ sơ sinh. Về lâu dài, Ct có thể
cùng với HPV – một loại siêu vi khuẩn – gây tân sinh tại cổ tử cung, có
khả năng đưa đến ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, mặc dù đa số bệnh nhân
viêm cổ tử cung xuất tiết là do nhiễm Ct, phần lớn trường hợp nhiễm Ct
lại không biểu hiện triệu chứng rõ rệt để có thể phát hiện và điều trị
sớm cho bệnh nhân.
Chính vì không phát hiện và điều trị Chlamydia
sớm đã tạo điều kiện cho Ct gây biến chứng bệnh lý vùng chậu. Đây là
một bệnh lý gây hậu quả trầm trọng lên chức năng sinh sản và là một
nguyên nhân gây vô sinh mà đáng ra có thể phòng ngừa được dễ dàng nhất.
Ước tính sau đợt bệnh lý vùng chậu đầu tiên, nguy cơ vô sinh vào khoảng
10%, và nguy cơ này cứ tăng gấp hai lần sau mỗi lần tái diễn bệnh lý
vùng chậu. Cần lưu ý rằng bệnh lý vùng chậu do nhiễm Ct cũng diễn tiến
âm thầm, tiềm ẩn khiến cho việc phát hiện nguy cơ lây nhiễm Ct dựa vào
triệu chứng lâm sàng càng khó khăn và kém hiệu quả.
Ở nam giới triệu chứng lâm sàng của
nhiễm Ct càng mờ nhạt hơn, chỉ một số bệnh nhân bị viêm niệu đạo. Một số
bệnh nhân có biểu hiện viêm mào tinh, viêm trực tràng … ảnh hưởng của
Ct lên chất lượng tinh trùng còn là vấn đề bàn cãi.
Tuy nhiên, vì Ct lây qua đường tình dục
nên nam giới nhiễm bệnh nếu không được phát hiện và điều trị sẽ là nguồn
tái nhiễm cho bạn tình. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn cho thấy Ct ở
nam giới có khả năng bám vào tinh trùng và theo tinh trùng đi vào cơ thể
phụ nữ, đi qua cổ tử cung, vào tử cung và đi lên ống dẫn trứng, giúp
phát tán nhanh Ct trong đường sinh dục của phụ nữ.
Chẩn đoán
Do phần lớn trường hợp nhiễm Ct không có
triệu chứng, và triệu chứng nếu có cũng không điển hình, nên việc chẩn
đoán và tầm soát nhiễm Ct đơn thuần dựa vào triệu chứng lâm sàng hoàn
toàn không khả thi. Cho đến khi có biểu hiện viêm vùng chậu hoặc khi
bệnh nhân khám vô sinh phát hiện có tổn thương ống dẫn trứng thì Ct đã
gây biến chứng khó phục hồi. Cần thiết phải có những phương tiện chẩn
đoán chính xác và phù hợp để giúp phát hiện Ct và những hậu quả mà nó
gây ra.
Để phát hiện Ct, người ta có thể dùng
nhiều biện pháp như cấy để chờ vi khuẩn gia tăng số lượng; dựa vào kháng
nguyên trên bề mặt để nhận diện vi khuẩn thông qua các kháng thể có gắn
chất đánh dấu; hoặc dựa vào chất liệu di truyền (gen) của vi khuẩn.
Ngoài ra, nhiễm Ct trong quá khứ cũng có thể ghi nhận thông đo lường
nỗng độ kháng thể kháng Ct trong máu, cho phép đánh giá phần nào mức độ
tổn thương của đường dẫn trứng. Mỗi xét nghiệm có những ưu khuyết điểm
khác nhau, tùy mục tiêu mà chọn lựa loại xét nghiệm tương ứng.
Nhận xét
Đăng nhận xét